Các xét nghiệm để chẩn đoán bệnh đái tháo đường
Đái tháo đường là một bệnh phổ biến trong xã hội hiện nay. Khi xã hội càng phát triển việc sử dụng thực phẩm, hóa chất, thuốc... không được kiểm soát làm số lượng người bị tiểu đường ngày càng tăng lên. Đặc biệt bệnh tiểu đường đang có xu hướng trẻ hóa, nếu như không được phát hiện và kiểm soát sớm thì bệnh tiểu đường sẽ gây ra những biến chứng vô cùng nguy hiểm ở mắt, thận, tim, mạch máu,...
1. Xét nghiệm đường niệu (Glucose nước tiểu).
Bình thường glucose sẽ được tái hấp thu gần như hoàn toàn tại ống thận. Chỉ có khoảng 0,5 mmol/24h. Vì vậy các xét nghiệm thông thường không phát hiện được và coi như "Âm tính".
Ngưỡng bình thường của thận với glucose là 8,9-10 mmol/L. Khi lượng đường trong máu vượt quá giá trị này, thận sẽ không hấp thu được hết và sẽ xuất hiện glucose trong nước tiểu.
Xét nghiệm glucose niệu được thực hiện bằng máy xét nghiệm nước tiểu 10 hoặc 11 thông số. Nước tiểu sẽ được phản ứng với hoá chất trên thanh test thử tạo màu. Đậm độ màu tỉ lệ thuận với nồng độ glucose trong nước tiểu và được đo bằng máy.
2. Định lượng glucose máu ngẫu nhiên.
Theo WHO (Tổ chức Y tế thế giới), một trong các tiêu chuẩn để chẩn đoán đái tháo đường là xét nghiệm đường máu tại thời điểm bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l với huyết tương hoặc ≥ 10,0 mmol/l với máu toàn phần. Như vậy ta có thể tiến hành xét nghiệm chẩn đoán đái tháo đường tại thời điểm bất kỳ mà không cần phải quan tâm đến bệnh nhân đã ăn hay chưa, đã ăn được bao lâu. Nếu cứ thấy đường máu ≥ 11,1 mmol/l thì kết luận đái tháo đường. Tuy nhiên nếu kết quả đường máu ở thời điểm bất kỳ mà < 7,8mmol/L thì cần làm thêm nghiệm pháp tăng đường huyết để khẳng định.
3. Định lượng glucose máu lúc đói.
Đây là xét nghiệm phổ biến hay dùng nhất hiện nay để chẩn đoán đái tháo đường. Bình thường glucose huyết tương khi đói khoảng 4,4 -5,0 mmol/L. Nếu như xét nghiệm thấy đường máu lúc đói (sau ăn 8h) ≥ 7,0 mmol/l ở 2 lần xét nghiệm gần nhau thì được coi là đái tháo đường.
Như vậy:
- Nếu xét nghiệm glucose huyết tương < 5,6 mmol/L hoặc < 4,4mmol/L trong máu toàn phần thì kết luận không bị đái tháo đường.
- Nếu xét nghiệm glucose huyết tương 5,6 - 6,4 mmol/L hoặc 4,4-5,5 mmol/L trong máu toàn phần thì nguy cơ bị đái tháo đường là ít và không cần làm nghiệm pháp tăng đường huyết.
- Nếu xét nghiệm glucose huyết tương 6,5 - 7,0 mmol/L hoặc 5,6-6,6 mmol/L trong máu toàn phần thì nguy cơ bị đái tháo đường là cao và cần làm nghiệm pháp tăng đường huyết.
- Nếu xét nghiệm glucose huyết tương ≥ 7,0 mmol/L hoặc ≥ 6,7mmol/L trong máu toàn phần thì kết luận bị đái tháo đường.
4. Nghiệm pháp tăng glucose máu bằng đường uống ở người lớn.
Nghiệm pháp này rất có giá trị và được dùng để khẳng định ở những bệnh nhân có nồng độ glucose huyết tương > 6,4 mmol/L nhưng < 7,0 mmol/L. Nghiệm pháp được tiến hành như sau:
- Lấy máu để định lượng glucose trước uống (lúc đói)
- Cho bệnh nhân uống 75g glucose hòa trong 200ml nước trong vòng 5 phút.
- Lấy máu bệnh nhân định lượng lại nồng độ glucose thời điểm 120 phút sau uống.
Nếu kết quả định lượng glucose ở thời điểm 120 phút mà ≥ 11,1 mmol/L thì được chẩn đoán là đái tháo đường.
Tuy nhiên để đảm bảo kết quả xét nghiệm được chính xác cần lưu ý những điểm sau:
- Bệnh nhân không đang sử dụng các loại thuốc nhóm glucocorticoid, thuốc lợi tiểu…
- Bệnh nhân ăn uống, hoạt động bình thường 3 ngày trước khi tiến hành thử nghiệm
- Nghiệm pháp được tiến hành sau khi bệnh nhân đã nhịn ăn được tối thiểu 8-10h.
- Trong quá trình tiến hành thử nghiệm bệnh nhân nghỉ ngơi tại chỗ, tránh vận động.
5. Nghiệm pháp tăng glucose máu bằng đường uống chẩn đoán bệnh tiểu đường thai kỳ.
Tiểu đường thai kỳ là tình trạng rối loạn khả năng dung nạp đường huyết khiến cho lượng đường trong máu tăng vượt ngưỡng quy định trong thai kỳ. Bệnh lý này có thể xảy ra ở bất cứ thời điểm nào của quá trình mang thai nhưng phổ biến nhất là 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối.
Thai phụ không có nguy cơ: nếu đo đường huyết khi đói cho kết quả dưới 5.1mmol/L thì khi thai nhi 24 - 28 tuần tuổi mẹ nên làm xét nghiệm dung nạp Glucose.
Thai phụ cần làm nghiệm pháp dung nạp Glucose đường uống bằng cách uống 75g Glucose sau đó nhân viên y tế sẽ tiến hành lấy máu tĩnh mạch đo nồng độ Glucose vào các mốc thời điểm: 1 giờ và 2 giờ sau khi thai phụ uống đường. Nghiệm pháp này chủ yếu thực hiện với thai phụ trước đó không được chẩn đoán đái tháo đường.
Kết quả:
- Đường huyết khi đói ≥ 5.1 mmol/L.
- Vào mốc 1 giờ ≥ 10.0 mmol/L.
- Vào mốc 2 giờ ≥ 8.5 mmol/L.
Nếu cả 3 chỉ số đều nhỏ hơn các giá trị trên thì thai phụ không mắc tiểu đường thai kỳ, nếu cả 3 chỉ số đều lớn hơn các giá trị trên thì thai phụ mắc tiểu đường thai kỳ.
6. Xét nghiệm HbA1c
Xét nghiệm HbA1c không chỉ xác định một người bị đái tháo đường mà còn giúp người đã bị bệnh. Mức HbA1c báo hiệu nhiều nguy cơ phát triển biến chứng đe dọa tính mạng (nhiễm toan ceton – biến chứng do tăng acid trong máu, tăng áp lực thẩm thấu máu,…). Xét nghiệm HbA1c được thực hiện hàng quý và cần thực hiện từ 3-4 lần/năm.
Các mức độ HbA1c, gồm:
Chỉ số HbA1c | Mức độ |
Dưới 5.7% | Bình thường |
5.7% đến 6.4% | Tiền đái tháo đường |
Từ 6.5% trở lên | Bệnh đái tháo đường |
Hiện nay, tại khoa Xét nghiệm bệnh viện đa khoa Diễn Châu đã có đầy đủ máy móc tự động hiện đại, đội ngũ kỹ thuật chuyên sâu để triển khai tất cả các xét nghiệm máu, nước tiểu để chẩn đoán và phát hiện sớm các bệnh lý tiền tiểu đường, tiểu đường.